KẾT QUẢ ĐIỀU TRA QUỐC GIA LIÊN TRƯỜNG VỀ TAI NẠN THƯƠNG TÍCH NĂM 2010

23/08/2012 | 05:00 AM

 | 

Tai nạn thương tích là một vấn đề sức khỏe cộng đồng tại Việt Nam với tỷ lệ tử vong và thương tích cao so với các bệnh lây nhiễm và không lây; Tai nạn giao thông đường bộ (TNGT) và đuối nước là những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho cộng đồng Việt Nam.

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA QUỐC GIA LIÊN TRƯỜNG
VỀ TAI NẠN THƯƠNG TÍCH NĂM 2010

 

Tai nạn thương tích là một vấn đề sức khỏe cộng đồng tại Việt Nam với tỷ lệ tử vong và thương tích cao so với các bệnh lây nhiễm và không lây; Tai nạn giao thông đường bộ (TNGT) và đuối nước là những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho cộng đồng Việt Nam. Năm 2010, trường Đại học Y tế Công Cộng và Mạng lưới nghiên cứu Y tế Công Cộng Việt Nam đề xuất triển khai khảo sát về tai nạn thương tích (VNIS 2010). Mục tiêu của cuộc khảo này nhằm triển khai thu thập số liệu với cỡ mẫu đại diện quốc gia để ước lượng các nguyên nhân tử vong, tai nạn thương tích hàng đầu và các yếu tố nguy cơ liên quan tới hành vi và môi trường dẫn đến các nguyên nhân hàng đầu gây tai nạn thương tích ở Việt Nam.

VNIS 2010 được thiết kế với hai cấu phần: (i) Cấu phần tử vong được thiết kế để xác định các nguyên nhân chính dựa trên nền cuộc Điều tra di biến động dân số Việt Nam năm 2010 (PC 2010). Hoàn cảnh cụ thể của gần 5.000 trường hợp tử vong do tai nạn thương tích được điều tra chi tiết thông qua công cụ xác định nguyên nhân tử vong bằng phương pháp phỏng vấn do Tổ chức Y tế Thế Giới (WHO) xây dựng và đã được chỉnh sửa phù hợp với Việt Nam. (ii) Cấu phần tai nạn thương tích là một cuộc khảo sát với cỡ mẫu là gần 50.000 hộ gia đình dựa trên khung mẫu của PC 2010. Các sự kiện tai nạn thương tích của tất cả các thành viên hộ gia đình, các yếu tố nguy cơ môi trường của tai nạn thương tích ở cấp độ hộ gia đình và các yếu tố nguy cơ hành vi tai nạn thương tích của người trả lời trong hộ gia đình được thu thập bằng bộ câu hỏi tiêu chuẩn.

Kết quả phân tích năm 2010 cho thấy tỷ suất TNTT không tử vong cho tất cả các nguyên nhân, tất cả các lứa tuổi ở Việt Nam là 2.092/100.000 dân/năm. Với tỷ suất này ước tính ở Việt Nam mỗi năm có tới 1,8 trường hợp bị TNTT mà phải nghỉ học, nghỉ làm tối thiểu 1 ngày hoặc phải cần đến sự chăm sóc của Y tế. Với tỷ lệ 36% nạn nhân phải nhập viện tối thiểu 1 ngày, chỉ tính riêng các nguyên nhân TNTT thì hệ thống chăm sóc sức khoẻ của Việt Namphải đón nhận tới 600.000 nạn nhân do TNTT tới điều trị và nằm viện trung bình là khoảng 10 ngày.


 

Trong số các nguyên nhân TNTT gây tử vong, TNGT là nguyên nhân hàng đầu với tỷ suất là 16,6/100.000. Với tỷ suất này ước tính năm 2010 ở Việt Nam có trên 15.000 trường hợp tử vong do TNGT, con số ngày cao hơn số liệu báo cáo của cảnh sát giao thông và tương đương với số liệu theo dõi của ngành Y tế thông qua sổ tử vong A6.

Kết quả điều tra cũng cho thấy ngã là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ 2 trong các nguyên nhân TNTT trong quần thể. Ngã chủ yếu xảy ra ở nhóm tuổi trên 60.

Đuối nước là nguyên nhân TNTT gây tử vong đứng thứ 3 trong quần thể nhưng lại đặc biệt ảnh hưởng tới nhóm tuổi trẻ em dưới 19 tuổi và rất cao trong nhóm tuổi 0-4 và 5-9.

Tử vong do các nguyên nhân TNTT chiếm 12.8% trong tổng số nguyên nhân tử vong trên quần thể và trong tổng số 20 nguyên nhân tử vong hàng đầu thì TNTT chiếm 5 nguyên nhân. TNGT là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ 2 trong toàn bộ các nguyên nhân gây tử vong ở Việt Nam và có ảnh hưởng rất lớn tới nhóm tuổi trong độ tuổi lao động.

Nghiên cứu VNIS 2010 đã  đưa  ra mô hình TNTT cập nhật cho Việt Nam hiện nay và các số liệu của VNIS 2010 sẽ là những bằng chứng cho việc lập và triển khai các kế hoạch chiến lược phòng chống TNTT tại Việt Nam trong những năm tiếp theo.