BẢO VỆ SỨC KHỎE NGƯỜI LAO ĐỘNG

18/07/2018 | 11:59 AM

 | 

 
 

Ở nhiều nước, hơn một nửa lao động làm việc ở trong khu vực phi kết cấu không có sự bảo trợ xã hội cho việc tìm kiếm các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và thiếu các quy định thực thi pháp luật về sức khỏe nghề nghiệp cũng như các tiêu chuẩn an toàn.

 

Các dịch vụ sức khoẻ nghề nghiệp để tư vấn cho người sử dụng lao động trong việc cải thiện điều kiện làm việc cũng như giám sát sức khỏe của người lao động bao phủ hầu hết các công ty lớn trong khu vực lao động kết cấu và hơn 85% lao động trong các doanh nghiệp nhỏ, khu vực phi lao động phi kết cấu, nông nghiệp, còn những lao động di cư trên toàn thế giới không có bất kỳ sự bao phủ nào về sức khoẻ nghề nghiệp.

 

Một số yếu tố nguy cơ nghề nghiệp, chẳng hạn như chấn thương, tiếng ồn, chất gây ung thư, bụi trong không khí hay các nguy cơ về ecgônômi chiếm một phần đáng kể gánh nặng bệnh tật mạn tính: chúng gây ra 37% các trường hợp đau lưng, 16% giảm thính lực, 13% bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, 11% bệnh hen suyễn, 8% chấn thương, 9% ung thư phổi, 2% bệnh bạch cầu và 8% trầm cảm.

19.7.2018. Bao ve.jpg 
 
 
 

Lao động phi kết cấu

 

Hàng năm có khoảng 12,2 triệu người, chủ yếu ở các nước đang phát triển chết do các bệnh không lây nhiễm trong khi vẫn còn trong độ tuổi lao động.

 

Các vấn đề sức khỏe liên quan đến công việc dẫn đến hậu quả giảm 4-6% GDP cho hầu hết các quốc gia. Các dịch vụ y tế cơ bản để ngăn ngừa bệnh nghề nghiệp và các bệnh liên quan đến công việc có chi phí trung bình từ 18 đô la Mỹ đến 60 đô la Mỹ (sức mua tương đương (ppp)) cho mỗi công nhân.

 

Khoảng 70% công nhân không có bất kỳ loại bảo hiểm nào để bồi thường cho họ trong trường hợp họ mắc bệnh nghề nghiệp và chấn thương.

 

Nghiên cứu đã chứng minh rằng các sáng kiến ​​về sức khỏe tại nơi làm việc có thể giúp giảm 27% số ngày nghỉ ốm do bệnh tật và 26% chi phí chăm sóc sức khỏe cho các công ty.

 

Điều gì quyết định sức khỏe của người lao động:

 

Những người hoạt động kinh tế dành trung bình khoảng một phần ba thời gian của họ tại nơi làm việc. Việc làm và điều kiện làm việc có tác động mạnh mẽ đến công bằng y tế. Điều kiện làm việc tốt có thể mang lại sự bảo vệ về mặt xã hội cũng như cơ hội phát triển bản thân, đồng thời cũng bảo vệ người lao động khỏi các mối nguy về thể chất và tâm lý xã hội. Chúng cũng có thể cải thiện quan hệ xã hội và lòng tự trọng của nhân viên từ đó dẫn đến những ảnh hưởng tích cực về mặt sực khoẻ.

 

Sức khỏe của người lao động là điều kiện tiên quyết cho thu nhập của mỗi hộ  gia đình, năng suất và phát triển kinh tế. Do đó, việc phục hồi và duy trì khả năng làm việc của người lao động là một chức năng quan trọng của các dịch vụ y tế.

 

Các nguy cơ sức khỏe tại nơi làm việc, chẳng hạn như nhiệt, tiếng ồn, bụi, hóa chất độc hại, không an toàn máy móc và căng thẳng tâm lý gây ra các bệnh nghề nghiệp và có thể làm trầm trọng thêm các vấn đề sức khỏe khác. Điều kiện làm việc, nghề nghiệp và vị trí làm việc trong sự phân cấp nơi làm việc cũng ảnh hưởng đến sức khỏe. Những người làm việc dưới áp lực hoặc với điều kiện làm việc không ổn định có thể hút thuốc nhiều hơn, tập thể dục ít hơn và có chế độ ăn uống không lành mạnh.

 

Ngoài chăm sóc sức khỏe nói chung, các công nhân - đặc biệt là những người có nguy cơ cao - cần các dịch vụ y tế để đánh giá và giảm thiểu rủi ro nghề nghiệp, cũng như giám sát y tế để phát hiện sớm các bệnh và chấn thương nghề nghiệp.

 

Các bệnh về đường hô hấp mãn tính, rối loạn cơ xương, giảm thính lực do tiếng ồn và các vấn đề về da là những bệnh nghề nghiệp phổ biến nhất. Tuy nhiên, chỉ có một phần ba các nước có các chương trình để giải quyết những vấn đề này.

 

Các bệnh không lây nhiễm (NCDs) cũng như các bệnh tim mạch và trầm cảm gây ra bởi căng thẳng nghề nghiệp dẫn đến tăng tỷ lệ mắc bệnh kéo dài và số ngày nghỉ việc. NCDs nghề nghiệp bao gồm ung thư nghề nghiệp, viêm phế quản mạn tính và hen suyễn do ô nhiễm không khí tại nơi làm việc và bức xạ.

 

Những bệnh này ở phần lớn các nước, bác sĩ và y tá không được đào tạo đầy đủ để giải quyết các vấn đề sức khỏe liên quan đến nghề nghiệp và nhiều quốc gia không đưa ra các chương trình đào tạo sau đại học về sức khỏe nghề nghiệp.